top of page

Dân tộc Tày

 

Người tày (tên gọi khác là thổ) xuất hiện ở việt nam từ khoảng nửa cuối thiên niên kỷ thứ nhất trước công nguyên. Hiện nay, dân số khoảng 1,845,492 người, đông nhất trong các dân tộc thiểu số ở nước ta. Có các nhóm địa phương: thổ, ngạn, phén, thu lao và pa dí. Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ tày - thái (ngữ hệ thái - ka ðai). Người tày cư trú ở vùng thung lũng các tỉnh ðông bắc, từ quảng ninh, bắc giang, lạng sơn, cao bằng, bắc cạn, thái nguyên, hà giang, tuyên quang đến lào cai, yên bái.

 

Người Tày có nền nông nghiệp cổ truyền phát triển, từ lâu đời đã biết thâm canh và áp dụng rộng rãi các biện pháp thuỷ lợi. Ngoài lúa nước người tày còn trồng lúa khô, hoa màu, cây ăn quả... Chăn nuôi thả rông nhiều loại gia súc, gia cầm. Nghề dệt thổ cẩm đặc biệt phát triển với nhiều loại hoa văn đẹp và độc đáo. Thuốc lá sợi vàng do người tày trồng nổi tiếng là ngon.

 

Trước kia, ở một số nơi, người tày ăn gạo nếp là chính và hầu như gia đình nào cũng có ninh và chõ đồ xôi. Trong các ngày lễ tết và phiên chợ, người tày thường làm nhiều loại bánh như bánh chưng, bánh giày, bánh gai, bánh dợm, bánh gio, bánh rán, bánh trôi, bánh khảo... Ðặc biệt có loại bánh bột hấp dẫn nhân bằng trứng kiến và cốm được làm từ thóc nếp non hơ lửa, hoặc rang rồi đem giã.

 

Bộ y phục cổ truyền của người tày làm từ vải sợi bông tự dệt, nhuộm chàm, hầu như không thêu hoa văn trang trí. Phụ nữ mặc váy hoặc quần, có áo cánh ngắn ở bên trong và áo dài ở bên ngoài, xẻ nách cài khuy ở bên phải. Nhóm ngạn mặc áo ngắn hơn một chút, nhóm phén mặc áo màu nâu, nhóm thu lao quấn khăn thành chóp nhọn trên đỉnh đầu, nhóm pa dí đội mũ hình mái nhà còn nhóm thổ mặc như người thái ở mai châu (hoà bình).

 

Đồng bảo tày thích sống thành bản làng đông đúc, nhiều bản có tới hàng trăm nóc nhà. Ngôi nhà truyền thống là nhà sàn có bộ sườn làm theo kiểu vì kèo 4, 5, 6 hoặc 7 hàng cột. Nhà có 2 hoặc 4 mái lợp ngói, tranh hay lá cọ. Xung quanh nhà thưng ván gỗ hoặc che bằng liếp nứa.

 

Với những thứ nhỏ gọn, người tày thường cho vào dậu để gánh hoặc cho vào túi vải để đeo trên vai, còn đối với những thứ to, cồng kềnh thì dùng sức người khiêng vác hoặc dùng trâu kéo. Ngoài ra, họ còn dùng, mảng để chuyên chở.

 

Chế độ quằng là hình thức tổ chức xã hội đặc thù theo kiểu phong kiến sơ kỳ mang tính chất quý tộc, thế tập, cha truyền con nối. Trong phạm vi thống trị của mình, quằng là người sở hữu toàn bộ ruộng đất, rừng núi, sông suối... Vì thế có quyền chi phối những người sống trên mảnh đất đó và bóc lột họ bằng tô lao dịch, bắt phải đến lao động không công và tô hiện vật, buộc phải cống nạp. Chế độ quằng xuất hiện từ rất sớm và tồn tại dai dẳng mãi đến cuối thế kỷ xix đầu thế kỷ xx.

 

Nam nữ được tự do yêu đương, tìm hiểu. Trước khi muốn tiến hành đám cưới, nhà trai xin lá số của cô gái về so với lá số của con mình. Sau khi cưới, cô dâu ở nhà bố mẹ đẻ cho đến khi có thai, sắp đến ngày sinh nở mới về ở hẳn bên nhà chồng. Người tày thường quý con trai, vợ chồng yêu thương nhau, hiện nay không còn tục ở rể.

 

Khi có thai cũng như trong thời gian đầu sau khi đẻ, người phụ nữ phải kiêng cữ nhiều thứ khác nhau với ước muốn được mẹ tròn, con vuông, đứa bé chóng lớn, khoẻ mạnh và tránh được những vía độc hại. Sau khi sinh được 3 ngày cúng tẩy vía và lập bàn thờ bà mụ. Khi đầy tháng tổ chức lễ ăn mừng và đặt tên cho trẻ.

 

Ðám ma thường được tổ chức linh đình với nhiều nghi lễ nhằm mục đích báo hiếu và đưa hồn người chết về bên kia thế giới. Sau khi chôn cất 3 năm làm lễ mãn tang, đưa hồn người chết lên bàn thờ tổ tiên. Hàng năm tổ chức cúng giỗ vào một ngày nhất định.

 

Khi làm nhà phải chọn đất xem hướng, xem tuổi, chọn ngày tốt. Trong ngày vào nhà mới chủ gia đình phải nhóm lửa và giữ ngọn lửa cháy suốt đêm đến sáng hôm sau.

 

Thờ cúng tổ tiên là nghi lễ tôn giáo hàng đầu của người tày. Nơi thờ tổ tiên chiếm vị trí trung tâm, tôn nghiêm nhất trong nhà. Ngoài ra, họ còn thờ cúng thổ công, vua bếp, bà mụ.

 

Hàng năm có nhiều ngày tết với những ý nghĩa khác nhau. Tết nguyên đán, mở đầu năm mới và tết rằm tháng 7, cúng các vong hồn là những tết lớn được tổ chức linh đình hơn cả. Tết gọi hồn trâu bò tổ chức vào mùng 6 tháng 6 âm lịch, sau vụ cấy và tết cơm mới, tổ chức trước khi thu hoạch là những cái tết rất đặc trưng cho dân nông nghiệp trồng lúa nước.

 

Chữ nôm tày xây dựng trên mẫu tự tượng hình, gần giống chữ nôm việt ra đời khoảng thế kỷ xv được dùng để ghi chép truyện thơ, bài hát, bài cúng... Chữ tày-nùng dựa trên cơ sở chữ cái la-tinh, ra đời năm 1960 và tồn tại đến giữa năm 80, được dùng trong các trường phổ thông cấp i - nơi có người tày, nùng cư trú.

 

Người tày có nhiều làn điệu dân ca như lượn, phong slư, phuối pác, phuối rọi, vén eng... Người ta thường lượn trong hội lồng tồng, trong đám cưới, mừng nhà mới hay khi có khách đến bản. Trong ngày hội lồng tồng ở nhiều nơi tổ chức ném còn, đánh cầu lông, kéo co, múa sư tử, đánh cờ tướng... Ở một số địa phương có múa rối với những con rối bằng gỗ khá độc đáo. Ngày thường trẻ em đánh quay, đánh khăng, đánh chắt, chơi ô...họ coi trọng người cùng tuổi, khi đã kết nghĩa bạn bè thì coi nhau  như anh em ruột thịt, bà con thân thích của mình.

về tree hugger
câu chuyện
quán cà phê
homestay
thông tin du lịch
tour du lịch
photography
cửa hàng
chính sách giao hàng
chăm sóc sản phẩm
chính sách bán sỉ và đặt hàng theo yêu cầu
liên lạc
instagram.com/treehuggercafe
câu hỏi thường gặp

© tree hugger, 2021

bottom of page