top of page
Dân tộc Thái
Cộng đồng dân tộc Thái (tên gọi khác là Tay Thanh, Man Thanh, Tay Mười, Tày Mường, Hàng Tổng, Thổ). Hiện người Thái hiện nay có khoảng 1,820,950 người, họ có nguồn gốc từ Đông Nam lục địa, xuất hiện ở Việt Nam từ hơn 1200 năm trước. Các nhóm địa phương khác gồm: Thái Đen, Thái Trắng, Thái Đỏ. Ngôn ngữ thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái (ngữ hệ Thái - Ka Đai).
Kinh tế
Người Thái có nhiều kinh nghiệm đào mương, dựng cọn, bắc máng lấy nước làm ruộng. Họ phát triển nghề trồng lúa nước và lúa nếp và hoa màu trong các cánh đồng thung lũng. Nhiều gia đình chăn nuôi gia súc, gia cầm, trồng bông để dệt vải, một số nơi làm đồ gốm.
Phương tiện vận chuyển chủ yếu của người thái là gánh, ngoài ra họ còn dùng gùi theo kiểu chằng dây đeo vắt qua trán, dùng ngựa cưỡi, thồ. Ở dọc các con sông lớn họ di chuyển xuôi ngược bằng thuyền đuôi én.
Nghề dệt và thêu thùa
Nghề dệt, thêu vải truyền thống của dân tộc Thái vô cùng nổi tiếng. Họ tự tay trồng bông, trồng dâu nuôi tằm, hái bông, xe sợi, dệt vải, nhuộm vải, nhuộm chỉ và thêu thùa. Những tấm vải được làm ra là tiêu chuẩn để đánh giá và hiểu về một người phụ nữ Thái.
Hoa văn thêu phổ biến của người Thái là cành ban, ngựa, con cò, nhà cửa, cổng vào, hoa mướp, chân rết,… Màu sắc chủ đạo là trắng, vàng, đỏ, xanh lá cây, tím,… Màu để nhuộm chỉ thêu và nhuộm vải được lấy từ các loại củ quả, gỗ trong tự nhiên.
Hiện nay, sản phẩm may mặc công nghiệp đã trở nên phổ biến, nghề dệt và thêu truyền thống của người Thái đang dần mai một, chỉ còn một số ít nơi còn lưu truyền.
Ăn uống
Người Thái ăn gạo tẻ là chính, gạo nếp dùng để làm các món ăn truyền thống. Trên mâm ăn hàng ngày không thể thiếu được món ăn đặc trưng muối giã với ớt, tỏi, rau thơm, mùi, lá hành, thêm gan gà luộc chín, ruột cá, cá nướng... (món muối giã này được gọi là chéo). Nếu có thịt động vật ăn cỏ thuộc loài nhai lại thì người Thái sẽ lấy nước nhúng lấy từ lòng non (nặm pịa) để dùng trong bữa ăn. Các món nộm, nhúng (lạp, cỏi), ướp muối, thính làm mắm từ thịt cá tươi cũng khá nổi tiếng. Người Thái thích các món nướng, lùi, đồ, sấy hơn các món canh, xào, rang, luộc... Họ ưa thức ăn có các vị cay, chua, đắng, chát, bùi, ít dùng các món ngọt, lợ, đậm, nồng, thích uống rượu cần, cất rượu. Người Thái hút thuốc lào bằng điếu ống tre, nứa và chạm bằng mảnh đóm tre ngâm, khô nỏ và có lệ mời người xung quanh như trước khi ăn.
Trang phục
Phụ nữ Thái thường mặc những tấm áo cánh ngắn, đủ màu sắc, đính khuy bạc hình bướm, nhện, ve sầu.; chạy trên đường nẹp xẻ ngực, bó sát thân, ăn nhịp với chiếc váy vải màu thâm, hình ống; thắt eo bằng dải lụa màu xanh lá cây; đeo dây xà tích bạc ở bên hông.
Phụ nữ Thái Đen đội khăn piêu với hoa văn thêu nhiều màu sắc rực rỡ. Chiếc khăn piêu tạo nên nét đẹp nổi tiếng trong trang phục của họ. Vào các ngày lễ tết, họ sẽ vận thêm áo dài đen, xẻ nách, hoặc kiểu chui đầu, hở ngực có hàng khuy bướm của áo cánh, chiết eo, vai phồng, đính vải trang trí ở nách, và đối vai ở phía trước.
Áo của phụ nữ Thái Trắng có thêm một túi ở ngực trái, cài khuy tết bằng dây vải. Màu quần áo phổ biến là trắng, đen, màu gạch non, hoa kẻ sọc. Ngày lễ mặc áo đen dài, xẻ nách, bên trong lót một lớp áo trắng. Ngày bình thường, họ cuốn khăn đen theo kiểu mỏ rìu và cuốn dải khăn dài một sải tay vào những dịp lễ tết.
Đàn ông Thái mặc quần cắt để thắt lưng; áo cánh xẻ ngực có túi ở hai bên gấu vạt.
Nhà cửa
Người Thái ở nhà sàn, mỗi bản thường có 40-50 nóc nhà kề nhau. Các căn nhà sàn có nhiều hình dáng khác nhau. Nhà mái tròn khum hình mai rùa, hai đầu mai rùa, hai đầu mái hồi có khau cút. Cũng có nhà 4 mái mặt bằng sàn hình chữ nhật gần vuông, hiên có lan can; nhà sàn dài, cao, mỗi gian hồi làm tiền sảnh. Một số nhà thì mái thấp, hẹp lòng, gần giống nhà người Mường.
Hôn nhân gia đình
Trước kia người Thái theo chế độ hôn nhân mua bán và ở rể nên việc lấy vợ và lấy chồng phải qua nhiều bước, trong đó có 2 bước cơ bản: cưới lên và cưới xuống. Trong bước cưới lên (đong khửn), chàng rể sẽ được đưa đến ở nhà vợ, thời gian ở rể thường từ 8 đến 10 năm. Sau thời gian ở rể, sẽ là bước cưới xuống (đong lông), cả gia đình sẽ cùng về nhà chồng sinh sống, con cái mang họ cha. Người Thái Đen đã có chồng sẽ búi tóc ngược lên đỉnh đầu.
Phụ nữ Thái thường đẻ theo tư thế ngồi, nhau bỏ vào ống tre đem treo trên cành cây ở rừng. Sản phụ được sưởi lửa ấm, ăn cơm lam và kiêng khem một tháng. Họ có nghi thức dạy trẻ lao động theo giới và mời lung ta đến đặt tên chi cháu.
Ma chay
Đồng bào Thái quan niệm, con người chết là tiếp tục ‘‘sống‘‘ ở thế giới bên kia. Vì vậy, lễ tang là nghi lễ tiễn người chết về với ‘‘mường trời‘‘. Lễ tang có 2 bước cơ bản: phúng viếng tiễn đưa hồn người chết lên cõi hư vô, đưa thi thể ra rừng để chôn (Thái Trắng) hoặc thiêu (Thái Đen), sau đó, gọi ma trở về ngụ ở gian thờ cúng tổ tiên ở trong nhà.
Quan hệ cộng đồng
Người Thái có nhiều họ, mỗi họ thường có những quy định khác nhau, ví như họ lò không ăn thịt chim táng lò, họ quàng kiêng con hổ,… mỗi người có 3 quan hệ dòng họ trọng yếu: Ải Noong (tất cả các thành viên nam sinh ra từ một ông tổ bốn đời), Lung Ta (tất cả các thành viên nam thuộc họ vợ của các thế hệ), Nhinh Xao (tất cả các thành viên nam thuộc họ người đến làm rể).
Tín ngưỡng
Đồng bào Thái thờ cúng tổ tiên, cúng trời đất, cúng bản mường. Cúng tổ tiên ở người Thái Đen vào tháng 7, 8 âm lịch. Người Thái Trắng ăn tết theo âm lịch. Gắn liền với sản xuất là lễ cúng cầu muà, mở đầu hàng năm là lễ đón tiếng sấm năm mới. Người Thái tính lịch theo hệ can chi như âm lịch, trong đó lịch của người Thái Đen chênh với âm lịch 6 tháng.
Đời sống văn hóa và tri thức dân gian
Người Thái có mẫu tự theo hệ sanscrit. Họ học theo lệ truyền khẩu. Người Thái có nhiều tác phẩm cổ viết về lịch sử, phong tục, luật tục và văn học. Thần thoại, cổ tích, truyền thuyết, truyện, thơ, ca dao,…là những vốn quý báu của văn học cổ truyền người Thái. Những tác phẩm thơ ca nổi tiếng của đồng bào Thái là ‘’xống chụ xôn xao’’, ‘’khun lứa, nàng ửa’’.
Người Thái sớm có chữ viết nên nhiều vốn cổ (trường ca, luật tục) được ghi chép lại trên giấy bản và lá buông.
Văn nghệ của người Thái có nhiều nét đặc sắc. Đồng bào rất thích ca hát, đặc biệt là ‘’khắp’’ (một lối ngâm thơ hoặc hát theo lời thơ, có thể đệm đàn và múa). Dân tộc Thái nổi tiếng khắp nơi với các điệu xòe, các loại sáo lam và tiêu, có hát thơ, đối đáp giao duyên phong phú.
Vào các dịp lễ tết, người Thái tổ chức các trò chơi hạn khuống, ném còn, kéo co, đua ngựa, dạo thuyền, bắn nỏ, múa xoè, chơi quay và quả mák lẹ, trong đó có nhiều trò chơi cho trẻ em.
© tree hugger, 2021
bottom of page