top of page

Dân tộc Khơ Mú

 

Người Khơ Mú là một trong những dân tộc lâu đời nhất ở vùng Tây Bắc Việt Nam (Lai Châu, Sơn La, Yên Bái), dân số hiện nay khoảng 90,612 người. Họ có các tên gọi khác như Xá Cẩu, Khạ Klẩu, Mãng Cẩu, Tày Hạy, Mứn Xen, Pu Thềnh, Tềnh.

Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn-Khmer, ngữ hệ Nam Á.

 

Kinh tế

 

Đồng bảo Khơ Mú chủ sống canh tác bằng hình thức du canh, du cư nương rẫy nên còn được gọi bằng biệt danh "xá ăn lửa". Họ canh tác theo lối phát - đốt - chọc lỗ - tra hạt. Cây trồng ngoài lúa ngô ra còn có bầu bí, đỗ và các loại cây có củ. Người Khơ Mú chăn nuôi trâu, bò, lợn, gà phục vụ sức kéo và nhu cầu tiêu dùng, tín ngưỡng.

 

Nghề đan lát của họ khá phát triển, nổi tiếng với các sản phẩm đan dệt từ vỏ cây rừng, các đồ dùng để vận chuyển, chứa lương thực, mâm mây, bua đựng quần áo.

 

Một số ít nơi biết thêm nghề rèn, mộc, dệt vải.

 

Việc trao đổi, mua bán chủ yếu là hình thức hàng đổi hàng. Vỏ ốc "kxoong" trước kia được coi như vật ngang giá.

 

Ăn uống

 

Người Khơ Mú thường đồ xôi hay đồ ngô, độn sắn. Họ thích ăn những món có vị cay, chua, đắng, các thức ăn nướng có mùi như chẻo, nậm pịa, cá chua...hàng ngày, phụ nữ và trẻ em hứng nước mạch trong các khe núi vào các ống bương để gánh về nhà, họ không có thói quen đưa nước lần về tận nhà.

 

Trang phục truyền thống của phụ nữ khơ mú gồm khăn piêu đen đội đầu, áo 'cỏm' đen có hàng cúc hình chữ nhật (pam) hoặc hình bướm (pem) ở ngực, dây lưng, váy, xà cạp, cài đầu, xà tích... Ngày nay khăn piêu khơ mú có thể có thêm hoa văn chỉ thêu sặc sỡ do giao lưu văn hóa với người thái. Nam giới mặc quần áo chàm, thường đội mũ nồi.

 

Vì điều kiện du canh, du cư nên bản làng thường nhỏ bé, rải rác. Nhà sàn chủ yếu dùng cột không ngoãm, vách phên, sàn bương. Hiện nay nhiều nơi đã làm nhà khang trang, vững chãi hơn.

 

Phương tiện vận tải người khơ mú sử dụng là gùi có dây đeo trên trán, có ách và các loại túi đeo, bộ phận người khơ mú làm ruộng dùng thêm sọt gánh.

 

Người khơ mú quan hệ chặt chẽ giữa những người đồng tộc và những người láng giềng, nhất là người thái. Mỗi bản gồm nhiều gia đình thuộc các dòng họ khác nhau, mỗi họ đều có trưởng họ. Người dân bản trong bản đã có phân hoá giàu nghèo. Những dòng họ người khơ mú đều mang tên thú, chim, cây cỏ... Và chia làm 3 nhóm tên họ.

 

Hôn nhân theo nguyên tắc thuận chiếu, đặc biệt trong phạm vi một dòng họ. Trong hôn nhân, nhiều tàn dư mẫu hệ còn tồn tại như tục ở rể, chồng mang họ vợ, hôn nhân anh em vợ, chị em chồng... Ðám cưới được tiến hành qua các khâu dạm hỏi, ở rể, lễ cưới ở bên nhà vợ và lễ đón dâu... Trai gái được tự do tìm hiểu nhưng quyền quyết định do bố mẹ, đặc biệt là ông cậu. Ông cậu là người có ý kiến quyết định tiền thách cưới, đồ sính lễ.

 

Ðám ma của người khơ mú gồm nhiều nghi thức tín ngưỡng. Ðặc biệt bài cúng tiễn hồn người chết kéo dài hàng giờ sau đó mới đem thi hài đi chôn.

 

Vào nhà mới là dịp vui của gia đình và cả bản. Chủ nhà thường mổ lợn thiết đãi bà con xóm giềng. Ðây là dịp dân bản trình diễn các sinh hoạt văn nghệ có tính cộng đồng.

 

Ngoài tết nguyên đán ra, người khơ mú còn ăn tết cơm mới. Tết được tổ chức sau vụ gặt tháng 10 âm lịch. Ðây là dịp vui của cả bản sau một thời gian lao động mệt nhọc. Tết cơm mới của người khơ mú thể hiện hiện sắc thái văn hoá tộc người đậm nét. Họ còn duy trì nhiều nghi lễ liên quan đến nông nghiệp, trồng trọt.

 

Người Khơ Mú quan niệm có 5 loại ‘’ma’’ quan trọng nhất là: ‘’ma trời’’, ‘’ma đất’’, ‘’ma thuồng luồng’’, ‘’ma tổ tiên’’ và ‘’ma nhà’’. Ðó là các loại ‘’ma’’ mang điều lành cho con người nhưng đôi khi giận dữ có thể gây tai hoạ trừng phạt con người. Ngoài lễ cúng mường, người khơ mú còn lễ cúng bản, đặc biệt là lễ cúng ‘’ma nhà’’ trong các dịp tết và khi con cháu trong nhà đau ốm. Bàn thờ ‘’ma nhà’’ đặt trên gác bếp, còn ông bà thờ ở một gian riêng kín đáo và rất kiêng kỵ đối với người ngoài. Mỗi dòng họ vẫn duy trì tục thờ ‘’ma dòng họ’’ với nghi thức và các động tác mang tính đặc trưng riêng.

 

Ngoài theo lịch Thái, người khơ mú phổ biến cách tính ngày giờ căn cứ theo bảng cà la để vận dụng trong việc dựng nhà, cưới gả...

 

Nhiều người Khơ Mú biết đọc, viết chữ Thái.

 

Trong các ngày lễ tết, trẻ em hay đánh cầu lông làm bằng lông gà, đánh quay và các trò chơi dân gian khác. Làn điệu dân ca quen thuộc nhiều người ưa thích là tơm, làn điệu này mang đậm tính sử thi, trữ tình, cách hát theo kiểu đối đáp. Người Khơ Mú thích xoè, múa, thổi các loại sáo, các bộ gõ bằng tre, nứa tự tạo, đặc biệt là thổi kèn môi.

về tree hugger
câu chuyện
quán cà phê
homestay
thông tin du lịch
tour du lịch
photography
cửa hàng
chính sách giao hàng
chăm sóc sản phẩm
chính sách bán sỉ và đặt hàng theo yêu cầu
liên lạc
instagram.com/treehuggercafe
câu hỏi thường gặp

© tree hugger, 2021

bottom of page